Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ đã thông qua dự luật S.1657 trừng phạt các cá nhân, tổ chức Trung Quốc liên quan đến những hoạt động tranh chấp lãnh thổ do Trung Quốc gây ra ở Biển Đông và biển Hoa Đông.
Về đại thể, dự luật này gồm hai luận điểm lớn:
– Phong tỏa tài sản và từ chối thị thực với những công dân, tổ chức Trung Quốc tham gia các dự án phát triển trên Biển Đông hoặc có hành động, chính sách đe dọa hòa bình, ổn định tại Biển Đông và biển Hoa Đông.
– Cấm phổ biến các tài liệu cho rằng các vùng biển tranh chấp ở Biển Đông và biển Hoa Đông là của Trung Quốc và hạn chế viện trợ những nước có hành động này. Bộ Quốc phòng, tàu chiến và máy bay Mỹ cũng không được có hành động công nhận tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh.
Nhìn từ Luật biển quốc tế
Xét về pháp lý, trong Biển Đông đang tồn tại 2 loại bất đồng, tranh chấp khác nhau: thứ nhất là tranh chấp trong xác lập các vùng biển và thềm lục địa, xuất phát từ việc giải thích và áp dụng khác nhau, thậm chí sai với Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS 1982); thứ hai là tranh chấp về quyền thụ đắc lãnh thổ đối với các thực thể địa lý nằm giữa Biển Đông, xuất phát từ lập trường, nguyên tắc pháp lý khác nhau.
Trước hết, dựa vào vị trí địa lý, cấu tạo tự nhiên và căn cứ theo UNCLOS 1982, có thể thấy trong Biển Đông có 3 loại thực thể địa lý được dùng làm căn cứ hoạch định.
Một là phần lục địa, được gọi là quốc gia ven biển như Trung Quốc, Việt Nam, Campuchia, Thái lan, Malaysia, Singapore, Brunei; hai là quốc gia quần đảo như Philippines, Indonesia; và ba là các quần đảo, hải đảo ở giữa Biển Đông như quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa…
Dù còn chưa thật hoàn thiện, các quốc gia ven biển và quốc gia quần đảo đều đã công bố về hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của mình.
Về cơ bản, theo tôi, các quy định này đều bám sát những tiêu chuẩn của UNCLOS 1982. Trên thực tế đã có những vùng chồng lấn được các bên liên quan đàm phán thành công, một số đàm phán vẫn đang diễn ra.
Tuy nhiên còn một trở ngại rất lớn, đó là những yêu sách về phạm vi vùng biển, về chủ quyền lãnh thổ đối với các hải đảo do Trung Quốc tạo ra và đang tìm cách áp đặt trong Biển Đông và biển Hoa Đông.
Trung Quốc tìm mọi cách để hợp thức hóa yêu sách biển theo đường “lưỡi bò” vốn xuất phát từ việc giải thích và áp dụng hoàn toàn sai UNCLOS 1982, nhằm thực hiện chiến lược độc chiếm Biển Đông, dùng Biển Đông để vươn lên giành vị trí số 1 thế giới.
Tài khoản Twitter của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện thông báo về việc ủy ban này đã thông qua dự luật S.1657 ngày 19-10, cho biết dự luật đang được chuyển lên Thượng viện xem xét – Ảnh chụp màn hình
Vì sao Mỹ lên tiếng?
Một trong những thủ đoạn Trung Quốc đang áp dụng là cho rằng các nước ngoài khu vực không có quyền và lợi ích gì ở Biển Đông ngoài quyền tự do hàng hải và tự do hàng không, mà các quyền này theo Trung Quốc là không hề bị cản trở.
Tuy nhiên, các chuyên gia luật biển cho rằng quan niệm này của Trung Quốc là không đúng với UNCLOS 1982.
Bởi vì trong Biển Đông, theo quy định của UNCLOS 1982, ngoài lãnh hải của các đảo theo định nghĩa tại điều 121 UNCLOS 1982, và ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở của các quốc gia ven biển và quốc gia quần đảo, sẽ là biển cả (High sea) và vùng (Zone) – tức là lòng đất dưới đáy nằm ngoài giới hạn quyền tài phán quốc gia.
Đó là tài sản chung của nhân loại, mà mọi quốc gia có biển hay không có biển trên thế giới đều có quyền và lợi ích hợp pháp ở đó.
Vì vậy, không thể loại các nước ở ngoài khu vực khi họ có quyền và nghĩa vụ tham gia bảo vệ và thực hiện, không chỉ các quyền tự do đi qua vùng đặc quyền kinh tế trong Biển Đông, mà còn cả các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong phạm vi “biển cả” và “vùng” theo UNCLOS 1982.
Rõ ràng việc Trung Quốc lên án sự xuất hiện của tàu chiến các nước, ngay cả khi các tàu đó tuân thủ đúng Luật biển quốc tế, là không đủ căn cứ, chí ít là về mặt pháp lý như đã trình bày. Tất nhiên chúng ta cũng sẽ cảnh báo và không hoan nghênh các chuyến hải trình có động cơ gây xung đột, bất ổn và không tuân thủ luật pháp quốc tế.
Vì thế, ngay trong dự luật, Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ đã chỉ ra: Bộ Quốc phòng, tàu chiến và máy bay Mỹ cũng không được có hành động công nhận tuyên bố chủ quyền của Bắc Kinh.
Phải chăng đây chính là những lý do khách quan để ủy ban quyết định đệ trình lên Thượng viện để sớm thông qua dự luật quan trọng này? Xuất phát từ những lý do nói trên, nếu được sớm thông qua, dự luật chắc chắn sẽ nhận được sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng khu vực và quốc tế.